NĂM TRINH NỮ KHỜ DẠI
Trần Mỹ Duyệt
Chúng ta đã nhiều lần đọc hoặc nghe về dụ ngôn Mười Cô Trinh Nữ chuẩn bị để đón chàng rể, được kể lại trong Phúc Âm Thánh Mátthêu (25:1-12). Theo truyền thống cổ xưa, trong đám cưới của người Do Thái, chàng rể cùng với một số bạn thân sẽ rời nhà mình để đến nhà cô dâu, ở đây một số những nghi lễ sẽ được cử hành. Mười trinh nữ là những phù dâu. Họ phụ giúp cô dâu chuẩn bị đón chàng rể khi chàng rể đến nhà cô dâu. Sau đó là cuộc rước qua các con đường - vào buổi tối – về lại nhà chàng rể. Tất cả mọi người trong đoàn rước đều phải cằm đuốc sáng trong tay. Ai không có đuốc thì kể như không thuộc thành phần trong cuộc rước. Đuốc cũng có thể được thay bằng một ngọn đèn dầu. Và trong dụ ngôn này, mười trinh nữ cầm đèn thay cho đuốc. [1]
Sự chậm trễ của chàng rể vô tình hay hữu ý đã để lộ thái độ của mười cô phù dâu, đó là sự chuẩn bị kỹ lưỡng và sẵn sàng, hoặc lơ là hay coi thường. Trong khi có năm cô đem đèn mà lại để thiếu dầu, còn lại năm cô chuẩn bị đầy đủ cả đèn lẫn dầu. Và trong dụ ngôn này, chúng ta nghe Chúa gọi năm cô thiếu chuẩn bị là “ngu ngốc”, là “khờ dại”.
Sự khờ dại hay ngu ngốc của năm cô thiếu dầu là vì các cô đã được tuyển chọn trong số các trinh nữ, đã được mời để tham dự buổi tiệc, nhưng đã tỏ ra lơ là, coi thường nên bỏ lỡ cơ hội. Có nhiều chú giải khác nhau về đoạn Thánh Kinh này, nhưng lời giải thích được cho là hợp với hoàn cảnh và ý nghĩa của dụ ngôn là thái độ của mỗi người chúng ta khi đón tiếp Chúa, dù trong bất cứ khoảnh khắc nào của cuộc đời hay trong giờ sau hết.
Tại sao thái độ của chúng ta trong những giây phút như vậy lại trở nên quan trọng? Thưa vì, nếu bỏ lỡ những cơ hội này, chúng ta sẽ không bao giờ gặp được Chúa nữa, đặc biệt là cuộc gặp gỡ cuối cùng của một đời người. Như năm cô trinh nữ thiếu chuẩn bị kia không vào được tiệc cưới khi cánh cửa phòng cưới đã đóng lại.
Nhưng còn đèn và dầu trong dụ ngôn này mang ý nghĩa gì đối với những cuộc gặp gỡ và đón tiếp như vậy? Tại sao trong đời sống chúng ta lại cần đến loại đèn và thứ dầu này?
Đèn ở đây có thể hiểu như là thái độ sẵn sàng, và dầu là lòng mến. Khi đón tiếp Chúa trong cuộc đời chúng ta, dù Ngài đến qua bất cứ hình thức nào: thử thách, đau khổ, nghèo túng, bệnh tật, hoặc vui mừng, hạnh phúc, may mắn, thành đạt… thì thái độ của chúng ta cũng vẫn luôn phải là tấm lòng yêu mến và trong tư thế sẵn sàng. Chúa Giêsu trong một hình ảnh khác cũng đã đề cập đến thái độ sẵn sàng và lòng yêu mến ở dụ ngôn người đầy tớ trung thành chờ chủ nhà đi vắng trở về. Chính thái độ sẵn sàng này khiến chúng ta luôn thức tỉnh trước tiếng mời gọi của Chúa.
Tuy nhiên, nếu có đèn mà thiếu hoặc không có dầu thì không thể cháy và soi sáng. Trong đời sống tâm linh của người Kitô hữu, dầu là lòng mến. Đối với Chúa lòng yêu mến là dầu thắp sáng ngọn đèn tình yêu, nhờ đó chúng ta mới nhìn rõ khuôn mặt của Đấng mình yêu mến. Thiếu lòng yêu mến mọi việc chúng ta làm, mọi đau khổ chúng ta chịu đều trở nên vô giá trị, cũng như có đèn mà lại không có dầu.
Một điều khác nữa mà những cô trinh nữ khờ dại không ai quan tâm đến, đó là lòng mến là thứ không thể san sẻ, chia cắt hoặc nhường cho ai được. Năm trinh nữ khôn ngoan đã nói với năm trinh nữ khờ dại: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.” (c 9) Tôi yêu mến cha tôi, mẹ tôi, và tôi kính mến Thiên Chúa của tôi là phát xuất từ lòng mến của tôi. Điều này tôi không thể nhường và chia sẻ với ai được, kể cả anh, chị, em, bạn bè quen thân. Và đó là lý do tại sao năm cô khôn ngoan kia không thể và không dám chia hoặc cho dầu của mình với năm cô khờ dại.
Ngoài việc thiếu dầu, thì ngọn đèn yêu mến của chúng ta lại rất dễ bị tắt bởi những cơn gió tội lỗi. Đây cũng là lời khuyên của các thánh đối với những linh hồn có lòng yêu mến Chúa. Lời khuyên ấy nói với chúng ta rằng đừng để những đam mê, dục vọng, và tội lỗi làm tắt ngọn lửa kính mến Chúa trong tâm hồn của chúng ta. Lúc đó, nếu giờ chết xảy tới mà chúng ta lại thiếu chuẩn bị như năm cô trinh nữ khờ dại thì số phận đời đời của chúng ta sẽ bị loại ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Và nếu chúng ta có gõ cửa xin vào, thì cũng sẽ được nghe câu trả lời: “Thật vậy, ta nói cho ngươi biết. Ta không biết ngươi là ai!” (c 12)
Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để ngọn đèn lòng mến của con bị tắt khi con đón tiếp Chúa.
_________
Hôn nhân là một đời sống, một dòng chảy. Nó theo ta mọi ngày trong suốt cuộc đời. Nó được dệt bằng một chuỗi dài nối tiếp giữa những vui buồn, sung sướng, vất vả, hạnh phúc và thử thách. Nó không phải là một cái gì mà con người có thể mua bán, đổi chác, hoặc sở hữu. Nó luôn luôn ở trong thể động, và tùy thuộc vào người sống với những giây phút ấy của cuộc đời họ.
Nghèo, khó khăn, và thử thách là những vấn nạn mà mọi người, mọi gia đình thường gặp phải trong cuộc đời. Quan niệm nhà Phật gọi đời là “bể khổ!” Còn trong kinh Lạy Nữ Vương, chúng ta đọc thấy những lời này: “Chúng con, con cháu Evà ở chốn khách đầy kêu đến cùng Bà, chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khẩn Bà thương”. Tóm lại đã mang kiếp nhân sinh, không ai tránh khỏi cảnh nghèo và cũng ít ai tránh gặp phải những khó khăn, thử thách.
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?